Phân tích bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu

Việt Bắc là bài thơ tiêu biểu của Tố Hữu, là một trong những thành tựu xuất sắc của thơ ca Việt Nam thời kháng chiến chống Pháp (1946 - 1954).

Ra đời trong một hoàn cảnh lịch sử hào hùng của dân tộc, sau chiến thắng Điện Biên chấn động địa cầu, miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, Thủ đô Hà Nội rợp đỏ bóng cờ trong ngày hội non sông (10 - 1954), bài thơ Việt Bắc là tiếng hát nghĩa tình sắt son thuỷ chung của mình với ta, của chiến sĩ, cán bộ, đồng bào đối với chiến khu Việt Bắc với cách mạng và kháng chiến, đối với Đảng và Bác Hồ của miền xuôi và miền ngược; là khúc tráng ca anh hùng của một dân tộc thắng trận sau hơn ba ngàn ngày máu lửa.

Bài thơ Việt Bắc là tiếng hát nghĩa tình sắt son thuỷ chung của mình với ta

Bài thơ Việt Bắc mang tầm vóc một trường ca, dài 150 câu thơ lục bát, vừa mang âm điệu ca dao, dân ca đậm đà, vừa mang vẻ đẹp thơ ca cổ điển và thơ ca cách mạng dân tộc.

1. Mở đầu bài thơ là cảnh đưa tiễn của mình với ta, giữa kẻ ở với người về đã gợi ra một trời thương nhớ, lưu luyến, bồn chồn, thiết tha:

Mình về mình có nhớ ta

Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng

Mình về mình có nhớ không

Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn ?

Hình ảnh hoán dụ “áo chàm” hiện lên trong buổi tiễn đưa đã tạo nên màu sắc Việt Bắc, màu sắc núi rừng chiến khu, màu thương nhớ của mối tình quân dân “đậm đà lòng son” suốt mười lăm năm trời cách mạng và kháng chiến:

Áo chàm đưa buổi phân li

Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay...

Có biết bao kỉ niệm sâu sắc ghi nhớ trong lòng, trải suốt một chặng đường dài gian lao và anh dũng, từ cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn năm 1940 đến chiến thắng Điện Biên và ngày miền Bắc được hoàn toàn giải phóng (mùa thu năm 1954). Những câu hỏi của người ở lại hoà theo tiếng hát cứ quyện vào hồn, thấm sâu vào lòng người cán bộ kháng chiến về xuôi: “Mình về có nhớ... Mình đi có nhớ...”. Mình đi có nhớ những tháng ngày “nhóm lửa” gian khổ: “Mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù”. "Mình về, có nhớ chiến khu" thời đánh Pháp đuổi Nhật “Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai”. Trong thiếu thốn gian lao, nợ nước thù nhà khắc sâu hồn người, càng chất chứa trong lòng, càng đè nặng đôi vai: “Mày sẽ chết! Thằng giặc Pháp hung tàn - Băm xương thịt mày tao mới hả” (Dọn về làng - Nông Quốc Chân). Mình đi..., mình về... có nhớ, nhớ trám bùi, nhớ măng mai, nhớ lau xám, nhớ những địa danh lịch sử, nhớ “Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?”. Nhớ Việt Bắc là “Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh”, nhớ đồng bào các dân tộc tuy nghèo khổ thiếu thốn nhưng tình nghĩa thuỷ chung son sắt với cách mạng. Những ẩn dụ, tượng trưng trong thơ Tố Hữu thật rung động, mở ra một không gian thương nhớ mênh mông với bao tình nghĩa vơi đầy:

Mình đi, có nhớ những nhà

Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son.

Xa dần Việt Bắc, trên đường về Thủ đô, về xuôi, người cán bộ kháng chiến mang theo bao nỗi nhớ, chất chứa dào dạt trong tâm hồn bao kỉ niệm đẹp và sâu sắc:

Mình đi mình lại nhớ mình

Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu...

Người đi, người về mang theo bao nỗi nhớ: nhớ mình, nhớ trăng lên đầu núi, nhớ nắng chiều lưng nương, nhớ bản khói cùng sương, nhớ bếp lửa, nhớ rừng nứa bờ tre, nhớ ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê,...

Phân tích bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu

Một củ sắn lùi, một bát cơm sẻ nửa, chiếc chăn sui... trong những tháng ngày “đắng cay ngọt bùi” ấy, người về có bao giờ quên. Sự đồng cam cộng khổ đã làm cho tình thương nỗi nhớ thêm bồi hồi da diết:

Thương nhau, chia củ sắn lùi,

Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng.

Các từ ngữ: thương nhau, sẻ nửa, đắp cùng như những ngọn lửa thắp sáng vần thơ, làm cho tình đồng bào đồng chí, tình quân dân, tình cá nước thêm ấm áp.

Nhớ chiến khu, nhớ Việt Bắc, ta nhớ mình, nhớ người mẹ vất vả, tần tảo “nắng cháy lưng, địu con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô”. Điệp ngữ “nhớ sao” diễn tả bao da diết bồn chồn: nhớ sao lớp học i tờ, đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan, nhớ tiếng hát giữa lưng đèo, vách núi, nhớ tiếng mõ rừng chiều, nhớ tiếng chày đêm nện cối... của khúc nhạc rừng chiến khu:

Nhớ sao lớp học i tờ

Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan.

Nhớ sao ngày tháng cơ quan

Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo.

Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều

Chày đêm nện cối đều đều suối xa.

“Chín năm nắng núi mưa ngàn”, người cán bộ kháng chiến đã gắn bó tâm hồn mình với chiến khu. “Những hoa cùng người” của Việt Bắc trong bốn mùa đã trở thành mảnh tâm hồn của ta cùng với bao nỗi nhớ:

Ta về, mình có nhớ ta,

Ta về, ta nhớ những hoa cùng người.

Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi,

Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.

Ngày xuân mơ nở trắng rừng

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.

Ve kêu rừng phách đổ vàng,

Nhớ cô em gái hái măng một mình.

Rừng thu trăng rọi hoà bình,

Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.

Đoạn thơ như một bài hành mang vẻ đẹp cổ điển. Thiên nhiên và con người Việt Bắc được điểm nhãn trong bức tranh tứ bình đẹp như gấm như thêu. Màu đỏ tươi của hoa chuối giữa rừng xanh mùa đông và con dao quắm của người đi nương, đi rẫy “nắng ánh” trên đèo cao. Hoa mơ mùa xuân “nở trắng rừng” và người thợ thủ công khéo léo đan nón “chuốt từng sợi giang”. Rừng phách mùa hè “đổ vàng” trong tiếng ve và hình ảnh cô gái Việt Bắc “một mình” đi hái măng giữa rừng tre rừng trúc. Tiếng hát ân tình thuỷ chung của ai cất lên trong rừng thu dưới ánh trăng xanh hoà bình mát dịu. Tất cả đều trở thành nỗi nhớ của ta, của người cán bộ kháng chiến.

Tố Hữu đã sống hết mình với Việt Bắc nên ông mới viết thật hay về nỗi nhớ ấy. Cảnh sắc thiên nhiên đẹp rực rỡ, đẹp dịu dàng và đầy sức sống. Cảnh bốn mùa xuân, hạ, thu, đông, mùa nào cũng đẹp, một vẻ đẹp thơ mộng xinh tươi. Con người Việt Bắc được nói đến là con người lao động: người đi làm nương rẫy, người thợ thủ công, cô em gái hái măng, và ai đang cất cao tiếng hát - tất cả đều tượng trưng cho những đức tính tốt đẹp của đồng bào các dân tộc Việt Bắc như cần cù, khéo léo, lạc quan yêu đời. Đọc bài thơ Việt Bắc, ta không bao giờ quên được cảnh sắc thiên nhiên bốn mùa và những con người lao động đáng yêu ấy.

Nhớ Việt Bắc là nhớ chiến khu bất khả xâm phạm: “Núi giăng thành luỹ sắt dày”. Nhớ Việt Bắc là nhớ thế trận chiến tranh nhân dân thần kì: “Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây”. Nhớ Việt Bắc là nhớ chiến khu với tất cả niềm tự hào về khối đại đoàn kết dân tộc làm nên sức mạnh Việt Nam để chiến đấu và chiến thắng:

Mênh mông bốn mặt sương mù,

Đất trời ta cả chiến khu một lòng.

Núi rừng Việt Bắc

Tác giả đã sáng tạo nên những hình ảnh ẩn dụ và nhân hóa ngợi ca chiến khu Việt Bắc mang tầm vóc dũng sĩ hiên ngang - cái nôi của cách mạng “dựng nền Cộng hoà”. “Ai về ai có nhớ không?” — Ta nhớ nhiều và nhớ lắm. Nhớ những nẻo đường chiến dịch, nhớ những địa danh lịch sử mà bộ đội ta tùng vào sinh ra tử, làm cho giặc Pháp bạt vía kinh hồn: “nhớ Phủ Thông, đèo Giàng - Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng - Nhớ từ Cao -Lạng, nhớ sang Nhị Hà”. Cả một trời thương nhớ không bao giờ có thể quên. Ta về ta nhớ những con đèo, những dòng sông, những ngọn núi..., nay “đã hoá tâm hồn” ta từ những tháng ngày gian khổ và oanh liệt.

Nhớ Việt Bắc là nhớ những nẻo đường chiến dịch, nhớ những đêm “rầm rập” hành quân ra trận. Là nhớ những binh đoàn “Quân đi điệp điệp trùng trùng” trong ánh sao đêm. Là nhớ những đoàn dân công vận tải “Bước chân nát đá” theo ngọn đuốc đỏ rực, cùng ánh “đèn pha bật sáng” của đoàn xe kéo pháo ra trận. Giọng thơ mang âm điệu anh hùng ca cất lên như những tiếng reo biểu lộ niềm vui trước khí thế chiến đấu và chiến thắng của quân và dân ta trong ba nghìn ngày khói lửa:

Những đường Việt Bắc của ta,

Đêm đêm rầm rập như là đất rung.

Quân đi điệp điệp trùng trùng

Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan

Dân công đỏ đuốc từng đoàn

Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay

Nghìn đềm thâm thẳm sương dày

Đèn pha bật sáng như ngày mai lên.

“Ai về ai có nhớ không? - Ta về..., ta nhớ nhiều và nhớ lắm!” Nhớ Việt Bắc là nhớ “thủ đô gió ngàn” của cuộc kháng chiến, là nhớ “Ngọn cờ đỏ thắm gió lồng cửa hang”, là nhớ “Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào”, là nhớ “Quê hương Cách mạng dựng nên Cộng hoà”...

Chiến khu Việt Bắc là nơi gửi gắm bao niềm tin của đồng bào và chiến sĩ trên mọi miền đất nước gần xa trong những năm dài chiến đấu gian khổ: “Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi... Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền”.

Việt Bắc là nơi hội tụ mọi chiến công, chiến thắng của quân và dân ta từ khắp các chiến trường báo về; niềm vui thắng trận dâng lên dào dạt:

Tin vui chiến thắng trăm miền

Hoà Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về.

Vui từ Đồng Tháp, An Khê,

Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.

2. Lời đối đáp tâm tình của mình, ta được thể hiện trong phần thứ hai bài thơ Việt Bắc càng trở nên bồi hồi tha thiết; người ở, người về, miền xuôi và miền ngược càng gắn bó ân tình sâu nặng. Món quà Việt Bắc gửi về miền xuôi là đặc sản, là “cây nhà lá vườn”, là hương vị của núi rừng:

Mình về ta gửi về quê,

Thuyền nâu, trâu mộng với bè nứa mai.

Món quà ấy càng làm cho tình nghĩa mình - ta, tình non nước thêm bền đẹp, càng làm cho cuộc sống, cuộc đời thêm đậm đà sắt son: “Chàm nâu thềm đậm, phấn son chẳng nhòa... Phên nhà lại ấm, mái đình lại vui”.

Việt Bắc là bài ca tình nghĩa. Có biết bao câu hỏi vang lên dồn dập như nhắc nhở, như khắc sâu những tình cảm tốt đẹp của quân dân, của cách mạng và kháng chiến, của mình với ta:

- Nhà cao còn thấy núi đồi nữa chăng?

- Sáng đèn còn nhớ mảnh trăng giữa rừng?

- Bao giờ Việt Bắc tưng bừng thêm vui?

Hai chữ “ngày mai” được điệp lại, mở ra một trời mơ ước bao la. Và đó cũng là niềm tin yêu của những tấm lòng ân tình, ân nghĩa thủy chung:

- Ngày mai về lại thôn hương,

Rừng xưa núi cũ yêu thương lại về.

Ngày mai rộn rã sơn khê,

Ngược xuôi tàu chạy, bốn bề lưới giăng...

Việt Bắc sẽ đổi thay trong sự đổi thay của đất nước

Việt Bắc sẽ đổi thay trong sự đổi thay của đất nước. Những nhà máy mới sẽ mọc lên. Phố phường sẽ mọc lên. Có nhiều mái trường ngói mới đỏ tươi cho tuổi thơ. Có “Chợ vui trăm nẻo về khơi nguồn hàng”. Mối quan hệ đầy tình nghĩa giữa miền xuôi và miền ngược, sẽ trở nên sâu nặng, gắn bó thiết tha vô cùng. Muối Thái Bình, cày bừa Đông Xuất, mía đường tỉnh Thanh, chum vại Hương Canh... là đặc sản miền xuôi gửi lên miền ngược sẽ góp phẫn làm cho cuộc sống mới thêm ấm áp, đẹp tươi. Món quà miền xuôi gửi lên miền ngược là món quà tình nghĩa “Ai lên mình gửi cho anh với nàng”:

Chiếu Nga Sơn, gạch Bát Tràng,

Vải tơ Nam Định, lụa hàng Hà Đông.

Những món quà tình nghĩa ấy đã làm cho lời thề giữa mình với ta được khắc sâu, làm cho khúc tình ca non nước mãi mãi bền đẹp:

Nước trôi lòng suối chẳng trôi,

Mây đi mây vẫn nhớ hồi về non.

Đá mòn nhưng dạ chẳng mòn...

Một trong những hình ảnh đẹp nhất được Tố Hữu tô đậm trong bài thơ là hình ảnh vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc. Ông Cụ đã từng hoạt động bí mật tại Cao Bằng. Người đã đến với Tân Trào trong những ngày Quốc dân đại hội. Người đã sống và đi thuyền trên sông Đáy. Bác đã đi chiến dịch Biên giới... nay Bác về xuôi cùng đoàn quân thắng trận. Núi rừng Việt Bắc “không nguôi nhớ Người”, ngẩn ngơ “trông theo bóng Người”. Bức chân dung lãnh tụ vừa cổ kính thiêng liêng vừa bình dị, gần gũi:

Mình về với Bác đường xuôi

Thưa giùm Việt Bắc không nguôi nhớ Người.

Nhớ Ông Cụ mắt sáng ngời

Áo nâu túi vải đẹp tươi lạ thường!

Nhớ Người những sáng tinh sương

Ung dung yên ngựa trên đường suối reo

Nhớ chân Người bước lên đèo

Người đi, rừng núi trông theo bóng Người.

Nét vẽ nào cũng thần tình. Có núi rừng, có đèo cao, có suối reo... làm nền cho bức họa truyền thần. Có những nét chấm phá linh diệu về Ông Cụ: mắt sáng ngời, áo nâu túi vải đẹp tươi, phong thái ung dung khi ngồi trên yên ngựa trong tiếng suối reo, khi bước trên đèo cao... Thời gian là những sáng tinh sương. Thần thái của Người là thông minh tài trí, là giản dị, bình dị, là ung dung, thanh cao. Thiên nhiên được nhân hóa: “Người đi, rừng núi trông theo bóng Người” làm cho tình thương nhớ, lưu luyến và sự kính yêu ngưỡng mộ của nhân dân đối với Bác Hồ thêm đậm đà, sâu sắc. Đây là một trong những đoạn thơ hay nhất, đẹp nhất của Tố Hữu viết về vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc.

Bài thơ Việt Bắc được khép lại trong tình non nước và lòng biết ơn Bác Hồ kính yêu. Đó là mối tình đời đời bất diệt:

Ngàn năm non nước mai sau

Đời đời ơn Bác càng sâu càng bền.

Việt Bắc là sự kết tinh nghệ thuật thơ ca dân gian và thơ ca cổ điển của dân tộc. Cách đối đáp giữa mình với ta theo lối ca đao dân ca được vận dụng sáng tạo. Tình lưu luyến, bồi hồi giữa kẻ ở người về gắn liền với bao kĩ niệm đắng cay, ngọt bùi trong suốt mười lăm năm trời, từ ngày “kháng Nhật thuở còn Việt Minh” đến ngày chiến thắng giòn giã: “Hoà Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về”.

Hình ảnh quân dân kháng chiến, hình ảnh lãnh tụ kính yêu, cảnh sắc thiên nhiên thơ mộng, hùng vĩ, đẹp tươi... tất cả đã chung đúc một cách hài hòa, tuyệt đẹp làm nên tính dân tộc và tính hiện đại của bài thơ tuyệt bút này.

Việt Bắc là khúc tình ca cũng là bản anh hùng ca về cách mạng, về cuộc kháng chiến và con người kháng chiến. Nó đã nâng cao tình yêu nước và niềm tự hào dân tộc. Tình ân nghĩa thuỷ chung là bài học sâu sắc đối với mỗi chúng ta, mãi mãi là hành trang của mỗi chúng ta.

Bài thơ Việt Bắc là tác phẩm tiêu biểu của nhà thơ Tố Hữu. Tác phẩm làm nổi bật tình nghĩa quân dân trong cuộc kháng chiến chống Pháp trường kì của quân và dân ta trên chiến khu Việt Bắc.

Viết bình luận