Trình bày suy nghĩ của mình đối với ý kiến của nhà văn Thạch Lam: “Văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo và thay đổi một thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người được thêm trong sạch và phong phú hơn”
Nhà văn Thạch Lam (1910-1942), ngoài tiểu thuyết, truyện ngắn, tập kí Hà Nội ba mươi sáu phố phường, còn có tập tiểu luận phê bình văn học. Vốn là những bài đăng rải rác trên báo, lời tựa các tập truyện về sau được tập hợp lại, in thành sách. Cũng một lời văn tinh tế nhẹ nhàng, một tinh thần trân trọng, chân tình đối với công việc, công việc văn chương, những ý kiến, những nhận xét của ông thể hiện một quan niệm văn nghệ lành mạnh, tích cực và tiến bộ. Có lúc người đọc cảm thấy ông đang tâm sự, đang đối thoại với mình.
Trong lời tựa Gió đầu mùa, Thạch Lam viết : “Văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người được thêm trong sạch và phong phú hơn".
Có thể nói, đó là một ý kiến sâu sắc. Giá trị hiện thực và nhân đạo là cái đích mà nhà văn và tác phẩm cần hướng tới, vươn tới.
1. Nhà văn chân chính, có tài năng và có cái tâm đẹp thì văn chương phải có ích cho đời, phải là món ăn tinh thần cho người đọc. Với Thạch Lam, cầm bút viết văn là nhà văn thực hiện một thiên chức cao quý bởi lẽ "văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực" để tố cáo và tích cực làm thay đổi cái thế giới giả dối và tàn ác. Không có gì đẹp hơn văn chương, không có gì mạnh hơn văn chương khi nó đã đi sâu vào lòng người. Là tiếng nói của tình cảm, là hình thức nhuần nhị của tư tưởng, "văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực", nó đã tác động sâu sắc đến tư tưởng, tình cảm của con người mà trở thành sức mạnh hành động của xã hội:
Văn chương từ cuộc đời mà nở hoa, phải trở về cuộc đời mà kết trái. Tác dụng của văn chương đích thực, sứ mệnh của nhà văn chân chính là đem hương vị lại cho cuộc đời, đem văn chương phục vụ những lí tưởng cao đẹp. Những áng văn kiệt tác mang vẻ đẹp nhân văn tỏa sáng đến muôn đời, vì vậy đất nước ta, dân tộc ta mới có những thiên cổ hùng văn như Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi, những thiên cổ kì bút như Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ. Coi văn chương là "một thứ khí giới thanh cao và đắc lực", nên Cao Bá Quát đã từng hạ bút khen: Kim Vân Kiều là tiếng nói hiểu đời, Hoa tiên là tiếng nói răn đời vậy. Cũng vì coi văn chương là "một thứ khí giới thanh cao và đắc lực" mà Nguyễn Đình Chiểu đã viết:
Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm,
Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà.
Khi đã coi văn chương là "một thứ khí giới thanh cao và đắc lực" thì không thể tầm thường nghề văn, không thể "quấy loãng trong một thứ văn bằng phẳng và quá dễ dãi". Lại càng không thể sử dụng văn chương cho những mục đích tầm thường. Nhà văn phải là người có nhân cách đẹp, không thể lấy văn chương - "đem gấm vóc phủ lên xã hội điêu tàn" như bọn bồi bút hèn hạ.
Trong một xã hội đen tối, đầy rẫy bất công và tội ác, nhiệm vụ của nhà văn, sứ mệnh của văn chương phải đứng về nhân dân và tiến bộ mà "tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối và tàn ác". Ông đã khẳng định tính khuynh hướng, tính chiến đấu của văn chương: "Văn chương không được thoát li thực tại, và cũng không thể dừng ở sự tố cáo những xấu xa, thối nát độc ác của xã hội, mà còn phải góp phần "thay đổi" nó, hướng tới một thế giới tốt đẹp hơn, nhân ái hơn”. Cũng trong lời tựa Gió đầu mùa, Thạch Lam đã nói rõ: "...thiên chức nhà văn cũng như những chức vụ cao quý khác là phải nâng đỡ những cái tốt để trong đời có nhiều công bằng, thương yêu hơn". Với Thạch Lam, nhà văn chân chính, văn chương đích thực phải lên án cái ác, cái xấu đồng thời hướng tới cái cao cả, cái tốt đẹp. Từ xưa đến nay văn chương là món ăn tinh thần không thể thiếu dối với mỗi dân tộc văn minh và tiến bộ. Nó không chỉ dinh dưỡng tinh thần mà còn có sức mạnh to lớn. Trong thế kỉ XV, vua Lê Thánh Tông Tao đàn nguyền súy đã viết:
Những lời hùng hồn đến át cả sông Ngân hà,
Những câu kì diệu khiến quỷ thần phải khóc.
Thân Nhân Trung, một trong "Nhị thập bát tú" của Hội Tao đàn cũng nói:
Lòng thơ vời vợi, thu phục vạn giáp binh,
Sức bút tung hoành, quét sạch hàng nghìn quân.
Với các nhà thơ trong Hội Tao đàn, thi sĩ mơ ước trở thành cây bút lớn, mỗi bài thơ, bài phú phải là "cái cày sắc nhọn" nơi đồng quê hoặc "lưỡi bảo đao lấp lánh" trong rừng tên biển giáo! Các nhà văn thời Phục hưng với sức mạnh của chủ nghĩa nhân văn đã góp phần to lớn chôn vùi chế độ phong kiến trung cổ và sự thống trị của nhà thờ hàng chục thế kỉ. Các nhà văn thời kì Ánh sáng ở Pháp như Đi-đơ-rô, Vôn-te... đã góp phần mở đường thắng lợi cho Cách mạng tư sản ở Pháp và nhiều nước Tây Âu, nêu cao lí tưởng Tự do, Bình đẳng và Bác ái. Có nhà văn trở thành cánh chim "báo bão" như Go-rơ-ki, có nhà văn trở thành "chủ tướng" của cách mạng văn hóa như Lỗ Tấn. Ở Việt Nam ta, "Phan Bội Châu câu thơ dậy sóng", và Tố Hữu với tập thơ Từ ấy đã trở thành tiếng kèn chiến đấu của "những con khôn của giống nòi"' vùng dậy vì tự do.
2. Thạch Lam, qua ý kiến trên còn khẳng định và đề cao thiên chức cao quý của nhà văn là sáng tạo nên những tác phẩm có giá trị "làm cho lòng người được thêm trong sạch và phong phú hơn". Thực vậy, văn học làm cho con người sống đẹp hơn, phong phú hơn, tâm hồn trong sáng hơn, mở rộng đến mọi chân trời. Văn học, đặc biệt là thơ ca - tiếng nói của tình cảm, với một thứ ngôn ngữ trau chuốt và hình tượng có khả năng phát hiện và diễn tả sự bí ẩn, huyền diệu và vô tận của cõi tâm linh, của tính cách và số phận con người. Văn chương là món ăn tinh thần sang trọng, giúp cho con người chiếm lĩnh vẻ đẹp thiên nhiên, sống sâu sắc hơn qua những điều nhà văn nói tới, để "từ một con người đến với những con người". Văn chương đích thực giúp người đọc "tự đối thoại", tự nhận thức về mình, hoàn thiện nhân cách của chính mình. Văn chương chân chính "làm cho người gần người hơn", đã nhân đạo hóa con người, Ức Trai viết:
Ngư ca tam xướng yên hồ khoát,
Mục địch nhất thanh thiên nguyệt cao.
(Ức Trai thi tập)
Hai câu thơ ấy đã nói lên vẻ đẹp và sức mạnh huyền diệu của nghệ thuật, của thơ ca. Đọc nó, con người cảm thấy tâm và trí của mình thêm giàu có, trong sáng hơn. Nói về tác dụng to lớn của văn chương, Go-rơ-ki nói: Văn học "giúp con người hiểu được bản thân mình, nâng cao niềm tin vào bản thân mình và làm nảy nở ở con người khát vọng hướng tới chân lí".
Thạch Lam đã sống và viết như ông đã nói. Những trang văn của Thạch Lam đã thể hiện đúng như quan niệm văn chương của ông. Bên cạnh những truyện mang màu sắc lãng mạn như Tình xưa, Nắng trong vườn, Dưới bóng hoàng lan, Sợi tóc, Thạch Lam đã viết rất thành công, rất cảm động về thế giới những con người nghèo khổ, những em bé, những bà mẹ nghèo nơi phố huyện ngày xưa. Hai đứa trẻ, Gió lạnh đầu mùa, Cô hàng xén, Nhà mẹ Lê,... đã cho thấy "những chân cảm đối với những con người ở tầng lớp dân nghèo thành thị và nông thôn" (Nguyễn Tuân). Bóng tối tràn ngập đôi mắt và cuộc đời những con người nhỏ bé, đáng thương. Họ không chỉ mơ ước được một bát cơm đầy, một tấm áo ấm mà còn khát khao một ánh sáng, một ngọn đèn như chị em Liên, như mẹ con chị Tí trong truyện Hai đứa trẻ. Có thể nói trang văn của Thạch Lam đã góp phần "tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối và tàn ác", đồng thời "làm cho lòng người được thêm trong sạch và phong phú hơn". Có lẽ vì thế mà sau hơn nửa thế kỉ, chúng ta vẫn thấy đầy đủ cái dư vị và nhã thú khi đọc văn Thạch Lam.
Trang văn Thạch Lam thâm đẫm hiện thực ở một số cảnh đời, chứa chan bao tình thương và trân trọng đôi với người nghèo, đậm đà ý vị màu sắc dân tộc,... Quan niệm văn chương của Thạch Lam, tiêu biểu là ý kiến trên đây hoàn toàn đúng đắn, tích cực, tiến bộ. Một đời văn như Thạch Lam là một đời văn đẹp.
Viết bình luận