Có ý kiến cho rằng: “Ca dao Việt Nam là một kho mĩ từ pháp”. Qua một số bài ca dao, em hãy chứng minh ý kiến trên

Mỹ từ pháp là cách diễn đạt mang tính nghệ thuật làm cho lời văn, lời thơ trở nên đẹp, có sức gợi tả, gợi cảm. Như thế, mỹ từ pháp cũng là cách thức sử dụng tu từ trong văn chương. Nói ca dao dân ca là một kho mỹ từ pháp có nghĩa là người ta tìm thấy trong ca dao dân ca rất nhiều biện pháp tu từ, hầu như câu ca dao dân ca nào cũng diễn đạt bằng biện pháp tu từ. Người nhận định có ý ca ngợi cách diễn đạt tinh tế, bóng bẩy của người xưa qua ca dao dân ca, ca ngợi giá trị của ca dao dân ca.

Ca dao Việt Nam là một kho mĩ từ pháp

Thử chọn phân tích vài bài ca dao dân ca để thấy rõ rằng tu từ là biện pháp diễn đạt ý phổ biến của ca dao dân ca và đồng thời thấy được các biện pháp tu từ trong ca dao dân ca.

“Thân em như con hạc đầu đình

Muốn bay chẳng cất nổi mình mà bay”.

Trong câu ca dao trên, tác giả dân gian ví von thật thích hợp. Hình ảnh một “con hạc đầu đình” chứ không phải là một con hạc tự do trên bầu trời lồng lộng. Đây chỉ là một cái tượng hình chim hạc, được đúc bằng vật liệu xây dựng hoặc tạc bằng đá, gắn lên mái đình làng cho đẹp. Đẹp thì có thể đẹp đấy, nhưng làm sao mà bay được? Người thợ tạc tượng khéo tay đã tạo dáng cho hạc trong tư thế đang vươn cánh như muốn tung bay lên bầu trời xanh kia. Lại càng mai mỉa thêm! Bởi vì làm sao hạc bay lên trời được khi nó được gắn chặt với mái đình? Hơn nữa, đó chỉ là một con hạc đá. Vậy mà tác giả ví thân phận người phụ nữ như con hạc đá ấy! Cách so sánh mới gợi hình gợi cảm làm sao! Lại kèm thêm phép đối nữa chứ! Đối lập ở đây thật sát sao, gợi lên nhiều ý nghĩa và cụ thể hóa cái hiện thực đầy bi kịch của người phụ nữ ngày xưa. Đối lập giữa cái “muốn” và cái “chẳng”. Bởi ai trong chúng ta lại không biết thân phận của người phụ nữ trong xã hội xưa? Họ bị ràng buộc, bị tước đoạt, bị cấm đoán mọi quyền của con người. Chế độ tam tòng tai ác kia xem họ như một thứ dây leo, sống nhờ sống gởi. Họ cùng có nhiều ước mơ và khả năng lớn như nam giới, nhưng lại bị trói buộc, khinh rẻ, không làm được gì ngoài việc lao động miệt mài, thầm lặng suốt đời để phục vụ gia đình. Có ai biết rằng trong thời phong kiến phụ nữ không được đến trường, không được thi cử, không được tham gia việc xã hội? Làm sao mà bay được! Cách so sánh nói lên thân phận đáng thương của người phụ nữ xưa, vừa cho thấy khát vọng cháy bỏng của người phụ nữ. Điều đó gợi lên cho chúng ta bao cảm xúc: yêu thương, xót xa, căm giận!

Người dân quê sống trong thiên nhiên, gắn bó với thiên nhiên

Trong ca dao có hàng vạn câu dùng cách nói ví von như thế. Bóng bẩy mà sâu xa hơn nữa là phép ấn dụ:

“Rủ nhau xuống bể mò cua

Đem về nấu quả mơ chua trên rừng

Em ơi! Chua ngọt đã từng

Non xanh nước bạc ta đừng quên nhau!”.

Bài ca dao có hai mươi bốn tiếng mà có sáu hình ảnh ẩn dụ, cả một bài ca dao là một trường ẩn dụ và tương phản. Chuyện anh và em rủ nhau xuống bể mò cua, đem về nấu quả mơ chua trên rừng là chuyện có thật trong đời thường, nhất là các tỉnh miền Bắc, miền Trung. Nhưng cái chính không phải là mò cua hái mơ mà muốn mượn sự đối lập giữa hai hình ảnh “bể >< rừng” để gợi lên cái không gian xa cách mênh mông và mượn khoảng cách vời vợi kia để gợi lên cái gian nan khó nhọc trong cuộc đời của “anh và em”. Mượn cái “cua, mơ” đế bắt ý nói đến “chua, ngọt”. Ẩn dụ lại lồng thêm ẩn dụ. “Chua >< ngọt” là vị của mơ rừng, cua biển nhưng cũng chính là là mùi vị canh đắng, ngọt bùi của cuộc đời. Cuộc đời của người lao động quả là chua đến tê lưỡi, nhưng có nhau trong đời, yêu thương nồng thắm khi có công ăn việc làm, khi được mùa thì cũng ngọt ngào lắm chứ! Họ từng gắn bó với nhau như thế là “chua ngọt đã từng”. Thời gian đã là thước đo chính xác nhất độ sâu, độ nồng của tình cảm "anh và em".

Hình ảnh “non xanh nước bạc” được sử dụng rất logic. Bởi lên rừng thì có non xanh, xuống bể thì có sóng bạc đầu. Họ nhìn thấy những sự việc này hàng ngày. Nó có đó từ lúc họ chưa sinh ra và khi họ trưởng thành thì vẫn tồn tại như một sự bất biến. Một hình ảnh ẩn dụ tượng trưng cho sự vĩnh hằng. Cặp vợ chồng này cũng hứa với nhau rằng tình yêu của họ cũng sẽ bền vững như non xanh nước bạc.

Cũng cần nói đến tác dụng của phép đối trong ca dao. Phép đối góp phần quan trọng trong việc tạo nên sự hài hòa cân đối cho lời ca, tạo nên sự nhịp nhàng, tha thiết cho âm điệu.

Người dân quê sống trong thiên nhiên, gắn bó với thiên nhiên, yêu thiên nhiên như tình nhân, như một phần cơ thể của mình. Cho nên khi sầu nhớ, cô đơn, không biết than thở cùng ai, họ gọi thiên nhiên đến để bầu bạn:

Buồn trông chênh chếch sao mai

Sao ơi, sao hỡi! Nhớ ai sao mờ?

Buồn trông con nhện giăng tơ

Nhện ơi, nhện hỡi! Nhện chờ mối ai?

Bốn câu ca dao tập trung bốn phép tu từ: nhân hóa, điệp từ, câu hỏi tu từ, song hành. Quả là phong phú. Nhờ các biện pháp tu từ trên, tác giả giúp cho nhân vật trữ tình bộc lộ được tâm hồn đang trĩu nặng nỗi buồn sầu nhớ vì xa cách người thương. Biện pháp điệp, tu từ, song hành đã góp phần lột tả tâm trạng với âm điệu buồn da diết, muốn đi tìm sự đồng cảm ở “sao”, “nhện” để vơi bớt nỗi cô đơn. Câu ca dao vì thế mà có sức gợi cảm lớn.

Ngoài ra, ca dao dân ca còn rất nhiều cách diễn ý nữa như lối hoán dụ, thậm xưng, chơi chữ...

Qua một số bài ca dao trên, phần nào chúng ta cảm nhận sự giàu có của kho mỹ từ của người bình dân xưa. Từ đó ta hết sức trân trọng tài năng, sự sáng tạo tuyệt vời của các nghệ sĩ dân gian xưa.

Viết bình luận