Nguyễn Văn Siêu nói về văn: "Văn chương... có loại đáng thờ. Có loại không đáng thờ. Loại không đáng thờ là loại chỉ chuyên chú ở văn chương. Loại đáng thờ là loại chuyên chú ở con người”. Hãy phát biểu ý kiến về quan niệm trên

Văn chương là sáng tạo tinh thần của con người. Xã hội, con người không chỉ cần có cơm ăn, áo mặc... mà còn cần có văn chương nghệ thuật. Hoa trái làm cho thiên nhiên thêm mỡ màu, văn chương nghệ thuật tô điểm cho cuộc đời thêm đẹp, bồi đắp cho tâm hồn con người thêm phong phú. Có hoa thơm trái ngọt thì cũng có hoa dại, quả đắng. Văn chương cũng vậy, có loại "đáng thờ”, cũng có loại "không đáng thờ”. Con người và cuộc đời không thể thiếu văn chương. Đúng như danh sĩ Nguyễn Văn Siêu (1799-1872) đã nói: "Văn chương... có loại đáng thờ. Có loại không đáng thờ. Loại không đáng thờ là loại chỉ chuyên chú ở văn chương. Loại đáng thờ là loại chuyên chú ở con người” .

Văn chương có loại đáng thờ

Câu nói của Nguyễn Văn Siêu thể hiện một quan niệm văn chương rất tiến bộ. Thế nào là loại văn chương "đáng thờ”? Đó là những sáng tác văn học, quan tâm trước hết đến con người, luôn luôn hướng tới cuộc sống và coi trọng mục đích phục vụ con người, coi “văn học là nhân học”. Các nhà văn, nhà thơ theo quan điểm này coi giá trị văn chương không phải ở chỗ dùng từ hay, hình ảnh đẹp,... mà là ở chỗ nó có ích cho cuộc đời nhiều hay ít, nó có giá trị nhân bản và mang tính nhân văn, có tác dụng làm giàu và góp phần bồi bổ nền văn hoá dân tộc như thế nào. Đó chính là quan điểm “nghệ thuật vị nhân sinh”, bao gồm các tác phẩm cổ điển như hịch, cáo, văn tế của tổ tiên, ông cha để lại, các tác phẩm thuộc trào lưu hiện thực và cách mạng, ngoài ra còn một số tác phẩm thuộc trào lưu lãng mạn trước năm 1945.

Văn chương chân chính phục vụ con người, gắn bó với nhân tâm thế sự, phản ánh đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, diễn tả nỗi đau, niềm vui và hi vọng của hàng triệu con người. Văn chương gắn bó với sự thịnh suy của đất nước, với tâm hồn của nhân dân. Văn chương là vũ khí, nhà văn, nhà thơ là chiến sĩ. “Văn chương phải có thế trận đuổi nghìn quân giặc” (Vua Trần Thái Tông) .“Bút lưỡi muốn xoay dòng nước lũ” (Phan Châu Trinh); “Một ngòi lông vừa trống vừa chiêng - Cửa dân chủ khêu đèn thêm sáng chói” (Phan Bội Châu).

Giữa thế kỉ XIX, nước ta bị giặc Pháp xâm lăng, nhà thơ yêu nước Nguyễn Đình Chiểu đã nêu cao thiên chức của người cầm bút:

Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm,

Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà.

“Đạo” ở đây là nhân nghĩa, lòng yêu nước thương dân, là thái độ khinh bỉ, căm thù đối với bọn Việt gian bán nước, bọn lừa thầy phản bạn.

Chủ tịch Hồ Chí Minh kế thừa và phát triển quan niệm văn chương của tiền nhân, nêu lên nhiều bài học sâu sắc cho văn nghệ sĩ. Trong Ngục trung nhật kí, Bác đã viết:

Nay ở trong thơ nên có thép,

Nhà thơ cũng phải biết xung phong.

Trong kháng chiến chống Pháp, Bác nhắc nhở các họa sĩ, các văn nghệ sĩ: “Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận. Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy ".

Những ý kiến ấy đã hùng hồn khẳng định: “Loại văn chương chuyên chú ở con người mới đáng thờ”. Nhịp sống của đất nước và nhân dân ta không thể thiếu loại văn chương như thế. Loại văn chương “đáng thờ” mà Nguyễn Văn Siêu nói tới chính là văn chương viết về con người, phục vụ con người, đề cao tính tư tưởng của văn chương.

Văn chương có loại không đáng thờ

Trái lại, còn có loại văn chương “không đáng thờ” đó là loại văn chương “chỉ chuyên chú ở văn chương”. Thế nào là loại văn chương “chỉ chuyên chú ở văn chương”? Đó là loại văn chương chỉ coi trọng đến mức tôn thờ mặt hình thức, coi nghệ thuật là trên hết, là tất cả. Nhà thơ ngồi trong tháp ngà để sáng tác, chỉ lo trau chuốt cho cái đẹp của hình thức, lo săn tìm cái đẹp hào nhoáng bên ngoài chứ không mấy chú ý đến nội dung tư tưởng, không hề quan tâm đến số phận con người, không có trách nhiệm đối với cuộc đời và số phận. Thậm chí có lúc họ nâng hình thức nghệ thuật lên thành một thứ chủ nghĩa, một thứ tôn giáo: chủ nghĩa duy mĩ.

Biểu hiện của khuynh hướng nghệ thuật này rất đa dạng với những mức độ nặng nhẹ khác nhau, trong những thời đại văn học khác nhau, thuộc những trường phái khác nhau, trào lưu khác nhau.

Đối với những thi nhân thời xưa “chuyên chú ở văn chương” có nghĩa là chỉ chăm chú gò câu đẽo chữ, đặt câu cho khéo, vế đối cho chỉnh, gieo vần hóc hiểm, sử dụng điển tích cầu kì, chơi chữ cho hóm hỉnh, v.v... Hoặc chỉ biết ngâm vịnh phù phiếm, trong thơ chỉ toàn có “mây gió trăng hoa tuyết nguyệt...” mà không hề đoái hoài đến nhân tâm thế sự. Lê Quý Đôn từng nhắc nhở: “Nếu chuộng nặn nọt, ưa mới lạ, gò gẫm từng chữ, tùng câu, thì thơ làm ra sẽ kém”. Vũ Khâm Lân lên án cái “lề thói ưa chuộng lả lướt... đua nhau theo đòi cái ngón từ chương, tỉa tách chạm trổ, hết mực xa hoa, cỏ biếc trăng non...”, và ông cho đó là “kì dị”,“trò bôi son trát phấn để mua vui cho người đời chốc lát”.

Loại văn chương “chỉ chuyên chú ở văn chương” là loại không đáng thờ, không đáng để tâm đến. Loại văn chương ấy nhất định bị độc giả quay lưng lại, bị thời gian xóa nhòa, lãng quên.

Cái tâm và cái tài của nhà văn đã “hoá thân” thành tác phẩm làm nên giá trị văn chương vừa hay vừa đẹp. Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn, Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi, Truyện Kiều của Nguyễn Du, thơ Hồ Xuân Hương, thơ Bà Huyện Thanh Quan, thơ Nguyễn Khuyến, thơ Tản Đà,... là loại văn chương đáng thờ, để lại dấu son trong tâm hồn dân tộc.

Trong kháng chiến chống Pháp và chppsng Mĩ, những bài thơ, bài văn mang khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn như bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng, Việt Bắc của Tố Hữu, Đất nước của Nguyễn Đình Thi, Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành, Đất của Anh Đức, Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi,... là những tác phẩm đáng thờ, sống mãi trong tâm hồn độc giả, làm giàu đẹp nền văn học Việt Nam hiện đại.

Ý kiến trên đây của Nguyễn Văn Siêu của hai loại văn chương “đáng thờ” và “không đáng thờ” đã nêu cao tính tư tưởng của văn chương, coi trọng tư tưởng là cái gốc của con người, của nghệ thuật, đề cao chức năng giáo dục của văn học.

Qua ý kiến ấy, ta càng thấy rõ văn chương là món ăn tinh thần vô cùng quan trọng và cao quý có tác dụng bồi đắp tâm hồn, nâng cao tư tưởng, nhất là tình yêu nước, tình nhân ái cho mỗi chúng ta.

Viết bình luận